Đã 78 mùa xuân trôi qua, kể từ buổi chiều ngày 22/12/1944 tại khu rừng Trần Hưng Đạo (Cao Bằng), 34 cán bộ và đội viên có mặt trong lễ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân giơ cao nắm tay thề dưới lá cờ đỏ sao vàng, nguyện vượt qua mọi khó khăn gian khổ, hi sinh chiến đấu vì độc lập của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Sau bữa cơm nhạt muối, Đội lên đường, mưu trí hạ liền hai đồn địch Phai Khắt (ngày 24/11/1944) và Nà Ngần (25/12/1944), chấp hành đúng chỉ thị của Ông Ké, phải đánh thắng trận đầu. Với tinh thần “ăn mỗi ngày một bữa, đánh mỗi ngày hai trận”, Đội nhanh chóng trưởng thành và phát triển, trong một tuần lễ, quân số đã là một đại đội chủ lực được trang bị đầy đủ vũ khí để giết giặc.
Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền trước Cách mạng tháng 8/1945 và trong 2 cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, quân đội ta trung với nước, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng, mãi mãi xứng danh là bộ đội cụ Hồ. Hình ảnh bộ đội cụ Hồ luôn đẹp trong cuộc đời và trong mỗi chúng ta. Đã có nhiều những vần thơ, những câu hát hay nhất, đẹp nhất, xúc động nhất viết về người lính:Có người línhMùa thu ấy ra đi từ mái tranh nghèo/ Có người línhMùa xuân ấy, ra đi từ ấy ko về/ Dòng tên anh khắc vào đá núi/ Mây ngàn hóa bóng cây tre...
Hình ảnh bộ đội cụ Hồ là những người bình dị, trang bị thô sơ, nhưng là những người kiên cường, bất khuất, được tô luyện trong khói lửa, có mặt khắp các chiến trường và đã làm nên những chiến công hiển hách. Ở người lính, dù trong hoàn cảnh khó khăn đến bao nhiêu, dù cho bom rơi, đạn nổ nhiều đến mức nào vẫn là tinh thần lạc quan, yêu đời cao độ. Đã có biết bao tấm gương sáng ngời về tinh thần chịu đựng gian khổ, đức hi sinh và lòng dũng cảm vô bờ bến còn lưu truyền mãi cho các thế hệ mai sau.
Tình hình chuyển biến, trong và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhiều cán bộ chiến sĩ của Đội trở thành chỉ huy nổi tiếng trên các chiến trường. Đến nay, các vị cao niên vẫn còn nhắc tên các anh Xích Thắng, Hoàng Sâm, Đàm Quang Trung, Bằng Giang, Nam Long… một cách trìu mến, thân thương.
Quân đội ta phát triển tiếp thành nhiều sư đoàn, quân đoàn, binh chủng… Song với nhân dân dẫu ngàn vạn các anh với quân hàm, quân hiệu, quân phục khác nhau cũng chỉ là một, đó là Anh Bộ đội!
Nói về bộ đội và vẻ đẹp của anh là nói về nhân dân trong mối quan hệ tương hỗ không phải quân đội nào, dân tộc nào cũng có được. Vì Quân đội ta là Quân đội nhân dân, Quân đội của Dân, do Dân, vì Dân. Quân đội ta tận trung với Đảng, lại tận hiếu với Dân. Đó là truyền thống cực kỳ quý báu, đồng thời, là niềm tự hào, là vinh dự, là tâm nguyện sâu sắc của mọi cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân.
Trước kia và đến nay vẫn vậy, nhân dân là bầu sữa của bộ đội cả về nghĩa bóng và nghĩa đen. Đưa con em vào bộ đội cầm súng đánh giặc cứu nước, gánh gạo, thồ lương lên tận chiến trường xa: Tây Bắc, Tây Nguyên để bộ đội ăn no đánh mạnh. Cụ già tóc trắng như mây, tháo cánh cửa, dỡ cột kèo làm vật chống lầy, với tinh thần “xe chưa qua, nhà chẳng tiếc”. Bà mẹ vùng địch hậu đào hầm bí mật “giấu cả sư đoàn dưới đất”. Cô gái tuổi mười tám, đôi mươi tải đạn pháo, may áo quần kịp gửi chiến sĩ trước mùa đông giá rét…
Trước kia và hiện nay người ta vẫn ví tình quân dân là TÌNH CÁ NƯỚC. Cố Bí thư thứ nhất Lê Duẩn lại ví ở mức độ cao hơn: QUÂN VỚI DÂN MỘT Ý CHÍ. Quân với dân chung một ý chí thà chết quyết không làm nô lệ. Chung một ý chí quyết tâm chiến đấu chống đế quốc xâm lược dù phải hi sinh, gian khổ đến đâu. Chung một ý chí vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Quân đội ta không chỉ yêu mến nhân dân một cách chung chung mà hòa vào nhân dân, nguyện phục vụ nhân dân vô điều kiện, khi cần không ngại hi sinh xương máu để bảo vệ nhân dân. Qua đó, hình ảnh anh bộ đội càng ngời sáng, càng thân thương, càng cao quý, càng gần gũi.
Kể sao xiết những trận đánh địch càn quét thời chiến để bảo vệ mùa màng cho nhân dân đang kỳ thu hoạch. Rồi thời nay, bão lũ tàn phá nhà cửa, đường sá, bộ đội là lực lượng xung kích lao xuống làn nước dữ cứu các cụ già, em bé, tiếp tế lương thực, thực phẩm, sửa chữa nhà cửa, cầu đường cho dân… Cơn lũ lớn năm 2020 ở Rào Trăng thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế với trận lở núi đột ngột đã cướp đi sinh mạng 14 cán bộ, chiến sĩ quân đội khi đang làm nhiệm vụ chống lũ, cứu dân; câu chuyện đó đến nay nhiều người vẫn nhớ và vẫn thương các anh…
Năm 2021, làn sóng thứ tư của dịch Covid-19 bùng phát. Từ tháng 4/2021, TPHCM là tâm dịch với con số mắc mỗi ngày hàng ngàn người… Tính chất ác liệt, tàn khốc chẳng khác gì một cuộc chiến tranh bằng súng đạn! Trên 100.000 bộ đội và dân quân đã lao vào trận đánh lớn chống dịch, cứu dân với nhiều nhiệm vụ cụ thể khác nhau như tham gia túc trực ở các điểm cách ly, truy vết, kiểm soát dịch tễ, vận chuyển và phân phối thuốc chữa bệnh, lương thực thực phẩm đến tận tay người dân. Có đơn vị nhường doanh trại để thành lập bệnh viện dã chiến. Bác sĩ, điều dưỡng quân y là thầy thuốc, đồng thời là nhân viên phục vụ, làm việc không kể ngày đêm. Giới báo chí tôn vinh họ là “thầy thuốc như mẹ hiền”, là “thiên thần áo trắng”, là “những người quên ăn, thiếu ngủ”, là “những người anh hùng trên mặt trận không tiếng súng”… Thực tế, có đồng chí đã bị lây nhiễm, sau khi điều trị hết bệnh lại tiếp tục phục vụ nhân dân; có đồng chí bị mắc Covid-19 nhưng không thể qua khỏi, họ hy sinh một cách thầm lặng, vẻ vang và cao quý!
Có một tên gọi rất đúng, rất đẹp dành cho người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam là “Bộ đội Cụ Hồ”. Kể cả khi đã trở về đời thường, họ vẫn “Mãi mãi là Bộ đội Cụ Hồ” như tên của một cuốn phim tài liệu do Hội Cựu chiến binh TPHCM tổ chức thực hiện. Phải chăng cái tên rất đúng, rất đẹp đó xuất hiện do Bác Hồ là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân, trực tiếp giáo dục và lãnh đạo các lực lượng đó theo hình mẫu của một quân đội kiểu mới, mang bản chất của giai cấp công nhân, đã và đang sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước giao phó.
Anh Bộ đội Cụ Hồ, chúng ta gọi tên anh với tất cả niềm thương mến và sự trân trọng!
Thực hiện: Cô giáo Trần Thị Thu Hà - GV Lịch sử